Cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt tham gia chuỗi cung ứng công nghiệp hàng không toàn cầu
Việc có quan hệ hợp tác tốt với các quốc gia trên thế giới trong điều kiện địa chính trị thế giới nhiều biến động, cùng với đội ngũ các doanh nghiệp hàng không vững mạnh, là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng công nghiệp hàng không toàn cầu.
Đó là nhận định của các chuyên gia tại “Hội thảo quốc tế Lĩnh vực công nghiệp hàng không” do Sở Công Thương Hà Nội tổ chức ngày 17/12.
Nhu cầu cao, cơ hội lớn
Thông tin từ ông Nguyễn Phước Thắng, Trưởng phòng Khoa học công nghệ và Môi trường (Cục Hàng không Việt Nam), dự báo dịch vụ toàn cầu (GSF) của Airbus cho thấy, thị trường dịch vụ hàng không thương mại tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ tăng gấp đôi giá trị từ mức 52 tỷ USD hiện nay lên 129 tỷ USD vào năm 2043. Đặc biệt, phân khúc bảo dưỡng máy bay sẽ đạt giá trị 109 tỷ USD.
Con số này đạt được do nhu cầu của các hãng hàng không sẽ đạt mức 19.500 máy bay mới và lưu lượng hành khách hàng không trong khu vực có tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 4,81%.
Còn theo ông Stéphane Castet, Giám đốc điều hành Công ty Advanced Business Events (Cộng hòa Pháp), trong 20 năm tới, nhu cầu đối với máy bay thương mại dự kiến đạt khoảng 36.000 chiếc, thị trường máy bay thương mại toàn cầu sẽ tăng trưởng với tốc độ khoảng 5%/năm.
Riêng Việt Nam, tốc độ tăng trưởng của thị trường hàng không đang đứng thứ 5 trên thế giới, số 1 khu vực Đông Nam Á. Đây là những dữ liệu cho thấy Việt Nam có cơ hội rất lớn để gia nhập ngành công nghiệp hỗ trợ lĩnh vực hàng không, vũ trụ.
Ông Stephan Castet cho rằng, Việt Nam như Maroc, cách đây một vài năm, Maroc chỉ có 3-5 doanh nghiệp trong ngành hàng không. Đến nay, Maroc đã có hơn 200 công ty hoạt động trong lĩnh vực này.
Điều thuận lợi hơn là Việt Nam hiện đã có những công ty hàng không vững mạnh. Hơn nữa, trong điều kiện địa chính trị thế giới nhiều biến động, Việt Nam vẫn có quan hệ tốt đẹp với tất cả các quốc gia trên thế giới.
“Đây chính là tài sản để Việt Nam phát triển trong lĩnh vực công nghiệp hàng không”, ông Stephan Castet khẳng định.
Còn theo Tổng Giám đốc Công ty TNHH Meggitt VietNam Paul Trần, ngành hàng không Việt Nam hiện còn thiếu phát triển lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, như bảo dưỡng, sửa chữa, nghiên cứu, sản xuất chế tạo phụ tùng... Thay vào đó, Việt Nam chỉ đang bay gia công khi từ tàu bay, động cơ hay linh kiện như phanh, lốp đều phải nhập khẩu. Từ đó khiến giá thuê tàu bay, sửa chữa động cơ... chiếm gần một nửa trong cơ cấu chi phí của các hãng bay trong nước.
Tìm cách giải quyết “lỗ hổng” ngành hàng không
Để giải quyết được “lỗ hổng” thiếu công nghiệp hỗ trợ của ngành hàng không hiện nay, các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam cần đạt chứng nhận đủ điều kiện để sản xuất linh kiện cho các hãng sản xuất tầu bay quy mô lớn như Boeing, Airbus.
Ông Ishida Takayuki, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn - Đầu tư - Phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam - Nhật Bản (VI-JA CID), phân tích, muốn tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam cần đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế nghiêm ngặt, đặc biệt là hệ thống quản lý chất lượng ngành hàng không vũ trụ theo chứng nhận “Hệ thống Quản lý chất lượng ngành hàng không vũ trụ” (chứng nhận AS9100).
Việc đạt được chứng nhận này sẽ là bước quan trọng giúp doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường quốc tế, hợp tác với các tập đoàn đa quốc gia trong ngành hàng không.
Bà Nguyễn Nguyệt Anh, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Dụng cụ An Mi, cũng nhận định rằng, chứng nhận AS9100 không chỉ là một tiêu chuẩn về chất lượng, mà còn là "giấy thông hành" giúp các doanh nghiệp Việt Nam gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Theo đó, các hãng hàng không tại châu Âu, Mỹ rất quan tâm tới việc tìm kiếm đơn vị sản xuất tại Việt Nam để chuyển đổi chuỗi cung ứng. Việc được cung cấp đầy đủ các thông tin tổng quan về Chứng nhận AS9100 sẽ tạo thành cơ hội lớn cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Tuy nhiên, hiện các doanh nghiệp FDI đang có nhiều ưu thế hơn so với các doanh nghiệp trong nước về vấn đề này.
Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Đình Thắng, Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội, nhận định, thị trường hàng không tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển nhanh chóng. Công nghiệp hỗ trợ ngành hàng không cũng đang được Hà Nội định hình là mảng quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Vì vậy, UBND TP Hà Nội đã ban hành Quyết định số 2316/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình phát triển Công nghiệp hỗ trợ TP Hà Nội giai đoạn 2020-2025.
Theo đó TP Hà Nội hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu trong quản trị doanh nghiệp, sản xuất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đồng thời đầu tư 16.000 tỷ đồng xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho 43 cụm công nghiệp, với tổng diện tích 753 ha.
Đối với ngành công nghiệp hàng không, TP Hà Nội đã ký kết thỏa thuận hợp tác với 10 doanh nghiệp ngành hàng không vùng Kobe (Nhật Bản), thành lập tổ hợp Techno Park Việt Nam – Nhật Bản tại khu công nghiệp Nam Hà Nội (Hanssip); Tổ chức hội nghị, hội chợ chuyên ngành tạo cơ hội cho doanh nghiệp Hà Nội kết nối với đối tác quốc tế qua đó phát triển sản phẩm, mở rộng thị trường.
“Nhờ những nỗ lực này, đến nay Hà Nội đã có gần 300 doanh nghiệp CNHT đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng được nhu cầu phát triển ngành công nghiệp nói chung và công nghiệp hỗ trợ ngành hàng không nói riêng”, ông Thắng nói.
Cục Hàng không Việt Nam cho biết, hiện đội tàu bay đăng ký quốc tịch Việt Nam là 222 chiếc, trong đó 203 tàu thương mại do các hãng trong nước khai thác. Mới đây, hãng hàng không Vietjet đã có đơn đặt hàng 200 chiếc Boeing 737 MAXX trong khi Vietnam Airlines cũng đang có nhu cầu khoảng 50 chiếc.
Với 22 sân bay, phục vụ 100 triệu hành khách mỗi năm, đến năm 2030 theo quy hoạch, số sân bay sẽ tăng lên 30 và 33 sân bay vào năm 2050. Đây là thị trường rộng lớn cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ hàng không Việt Nam gia nhập chuỗi cung ứng thế giới.